LỄ CƯỚI XƯA CỦA NGƯỜI HÀ NỘI

Hà Nội xưa dù vẫn giữ phong tục như các vùng miền khác nhưng có nhiều trí thức, thương nhân, tầng lớp trung lưu nên cưới hỏi cũng có nét riêng.

Đón dâu bằng ô tô từ đầu những năm 1930
Lễ ăn hỏi ở Hà Nội xưa không thể thiếu cốm và hồng, gia đình khá giả thì có thêm lợn sữa quay nhưng bị phê phán là phong kiến nên người ta bỏ từ năm 1946. Theo thời gian, lễ vật ăn hỏi thay đổi gồm: bánh cốm, mứt sen. Nhà giàu lễ to, nhà nghèo lễ nhỏ nhưng không thể thiếu bánh phu thê, biểu tượng của đôi vợ chồng duyên phận vẹn toàn.
Với nhà giàu, mâm cỗ bao giờ cũng phải đủ bốn bát, sáu đĩa. Sáu đĩa bao gồm: một đĩa thịt gà da vàng rượi, một đĩa thịt lợn quay xếp hình cánh hoa đều tăm tắp, một đĩa giò lụa, một đĩa chả quế, thêm một đĩa xôi gấc, một đĩa nộm thập cẩm. Bốn góc mâm là bốn bát canh gồm: bát măng ninh chân giò, bát mọc thả nấm, chim bồ câu hầm hạt sen và bát mực nấu rối gồm: su hào, cà rốt thái chỉ, trứng tráng thái chỉ, giò lụa thái chỉ, mực khô thái chỉ xào cháy cạnh. Nhà sang còn có thêm hoa quả tráng miệng hay đĩa chè kho. Cỗ cưới nhà nghèo ít bát ít đĩa hơn nhưng không thể thiếu thịt gà luộc và xôi gấc.
Cưới hỏi ở Hà Nội có nhiều thay đổi vào những năm 1920. Một phần do ảnh hưởng của văn hóa, văn minh Pháp, một phần cũng vì thấy các lệ xưa quá nhiêu khê. Đám cưới đầu tiên dùng thiếp mời, kèm theo gói chè nhỏ và hạt sen là đám cưới con trai thứ của nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Đây cũng là đám cưới đầu tiên ở Hà Nội không làm tại tư gia mà đặt cỗ ở khách sạn Pháp quốc (nay là khu vực rạp Kim Đồng, phố Hàng Bài). Vào những năm 1920, trong lễ vật đưa sang nhà gái còn có thêm thuốc lá điếu hiệu Job. Với gia đình trung lưu, rượu sâm banh với bánh săm pa là hai thứ không thể thiếu trong lễ cưới. Năm 1930, nhà Quảng Tín (119 Hàng Bông) mua chiếc Citroen cho thuê ăn hỏi và đưa dâu, trở thành nhà đầu tiên ở Hà Nội mở dịch vụ này. Tiếp đến là Tự Vân ở Hàng Gai, Hoa Tường ở Khâm Thiên. Xe được trang trí hoa, kết dây băng bằng lụa màu. Và từ đó, những gia đình giàu có đã bỏ đưa dâu bằng xe song mã, thay bằng ô tô.
Những luật tục xưa
Xưa lễ cưới hỏi bao gồm: Lễ nghị hôn (là lễ chạm mặt hay nôm na là dạm hỏi), Lễ định thân (hỏi tên tuổi cô gái, đã kết hôn lần nào chưa), Lễ nạp trưng (dẫn đồ cưới) và Lễ thân nghinh (tức là lễ đón dâu). Nghi lễ là như vậy, nhưng tùy vào vùng miền, tùy theo gia cảnh, mối quan hệ mà các gia đình có thể tổ chức đám cưới to hay nhỏ. Dù là sống ở nội thành hay ngoại thành, giàu hay nghèo, lễ chạm ngõ ở Hà Nội xưa không thể thiếu được gói chè, chai rượu và quan trọng là cơi trầu vì “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Với người Hà Nội, lễ ăn hỏi nếu diễn ra vào mùa hồng chín (mùa Thu) thì không thể thiếu hồng đỏ.
Xưa hôn lễ thường diễn ra vào chiều muộn vì đó là khoảng thời gian dương qua âm lại, âm dương giao hòa là thuận theo lẽ đất trời. Trong khi đón dâu, cô dâu, chú rể phải làm lễ gia tiên. Lễ này như một sự tưởng nhớ đến cội nguồn và trong lúc cô dâu chú rể làm lễ thì hai họ ngồi uống nước chè, hút thuốc và đọc thơ ca ngợi người “nhà mình”.
Thay đổi
Cỗ cưới cũng bắt đầu có sự thay đổi, nhiều gia đình không nhất thiết phải 6 đĩa, 4 bát, thay vào đó là những món khác nhưng không thể thiếu được thịt gà luộc và xôi gấc – 2 món biểu trưng cho sự thịnh vượng, may mắn và hạnh phúc. Nếu là đám cưới của những gia đình khá giả thì phải có quả phù tang (dùng để đựng đồ lễ) do 2 người khiêng, bên trong đựng trầu cau, lợn quay (tục này bị phê phán là phong kiến và mất hẳn vào năm 1946). Nhiều gia đình còn có rượu sâm panh với bánh săm pa, đây là 2 thứ không thể thiếu trong lễ cưới. Dù nhiếp ảnh xuất hiện ở Hà Nội từ 1865, nhưng phải đến đầu những năm 1930 mới xuất hiện chụp ảnh đám cưới và cũng chỉ những gia đình khá giả mới chụp để ghi lại sự kiện trọng đại của con cái.
Trong nửa đầu thế kỷ 20, rất nhiều người nhập cư vào Hà Nội, họ không muốn về quê tổ chức cưới hỏi vì mất thời gian và tốn kém nên đã sinh ra dịch vụ cho thuê phòng cưới và phòng tân hôn. Theo thời gian, cưới hỏi có nhiều biến đổi. Thời kỳ chiến tranh chống Mỹ người ta tổ chức cưới theo phong cách “đời sống mới”, tức là không cỗ bàn, khách đến chỉ uống nước chè ăn kẹo bánh và liên hoan văn nghệ cây nhà lá vườn là xong. Năm 1975, đất nước thống nhất, đám cưới Hà Nội lại quay lại như xưa dù thiếu thốn vật chất. Ngày nay, đám cưới ở Hà Nội hiếm nhà nào tự nấu cỗ và ăn tại gia. Phần lớn là thuê khách sạn hay các phòng cưới chuyên nghiệp, nhưng tục lệ thì vẫn vậy.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *